Là tài sản chung
Theo khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nhà, đất của vợ chồng được coi là tài sản chung khi thuộc các trường hợp sau đây:
- Là tài sản do vợ, chồng có được sau khi kết hôn hình thành từ thu nhập, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng… trong thời kỳ hôn nhân;
- Là tài sản vợ chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung;
- Là tài sản vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Đặc biệt, khoản 1 Điều 34 Luật Hôn nhân và Gia đình khẳng định:
Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Theo quy định này, khi nhà, đất (tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng) là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ, chồng thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở (gọi tắt là Sổ đỏ) phải có tên của hai vợ, chồng trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Đây cũng là quy định được nêu tại khoản 4 Điều 98 Luật Đất đai năm 2013:
Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người
Như vậy, căn cứ các quy định trên, nếu vợ, chồng không có thỏa thuận Sổ đỏ đứng tên một người thì trong Sổ đỏ phải ghi tên cả vợ và chồng khi nhà, đất là tài sản chung của vợ, chồng.
Là tài sản riêng
Bên cạnh việc nhà, đất là tài sản chung thì đây còn có thể là tài sản của mỗi người. Khi nhà, đất là tài sản có trước khi kết hôn, do được thừa kế riêng, tặng cho riêng, có được do phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân… thì là tài sản của riêng người đó.
Trong trường hợp này, khi nhà, đất là tài sản riêng thì trên Sổ đỏ sẽ chỉ có tên một người vợ hoặc tên một người chồng.
Vợ có cần ký bán khi Sổ đỏ chỉ đứng tên mình chồng?
Như phân tích ở trên, trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng có thể có nhà, đất là tài sản chung hoặc tài sản riêng. Trong đó:
1/ Nếu nhà, đất là tài sản chung
Theo khoản 2 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình, tài sản chung của vợ, chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ, chồng.
Do đó, nếu vợ, chồng bán nhà, đất mà Sổ đỏ đứng tên cả hai vợ, chồng thì khi thực hiện thủ tục phải có sự đồng ý của cả hai người. Đồng nghĩa, khi ký vào hợp đồng mua bán phải có đầy đủ chữ ký của cả vợ hoặc chồng trừ trường hợp hai vợ chồng có ủy quyền.
Đặc biệt, nếu Sổ đỏ chỉ đứng tên một người do có thỏa thuận nhưng vẫn là tài sản chung của hai vợ, chồng thì khi bán vẫn cần có sự đồng ý và chữ ký của cả hai người. Nếu một trong hai bên không ký bán được thì cũng phải ủy quyền theo quy định.
2/ Nếu nhà, đất là tài sản riêng
Khoản 1 Điều 44 Luật Hôn nhân và Gia đình nêu rõ:
Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung
Do đó, nếu nhà, đất là tài sản riêng của vợ hoặc chồng, Sổ đỏ đứng tên một trong hai người thì khi bán chỉ cần người đó ký mà không cần chữ ký của người còn lại.
Nói tóm lại: Sổ đỏ đứng tên mình chồng thì chỉ cần chữ ký của vợ khi bán nếu nhà, đất được xác định là tài sản chung vợ, chồng.
Thúy Kiều (t/h)
Thúy Kiều
Link nội dung: https://btoday.vn/nha-dat-co-phai-dung-ten-ca-hai-vo-chong-khong-a476.html